Theo đuổi lĩnh vực nghiên cứu còn bỏ ngỏ, vị tiến sĩ và các cộng sự của mình đang là một trong những người tiên phong tại Việt Nam hướng tới ngăn chặn các căn bệnh chết người do vi nấm lẩn khuất giữa cộng đồng.
Đó là một ngày cuối năm 2017. Hành trình từ sân bay quốc tế Incheon, thành phố Seoul (Hàn Quốc) tới phi trường Tân Sơn Nhất (TP.HCM) kéo dài khoảng 5 giờ đồng hồ và chiếc Boeing 737 đang sắp hạ cánh. Qua ô cửa sổ lọt thỏm giữa những mảng mây trắng, Dương Nữ Trà My nhìn xuống mảnh đất cố hương sau 7 năm xa cách rồi tự đặt ra trong đầu câu hỏi: “Lựa chọn trở về Việt Nam thời điểm này là đúng hay sai ?”.
Tiến sỹ Dương Nữ Trà My
2,5% người Việt có nguy cơ mắc một loại bệnh do vi nấm
Sinh ra ở Phú Yên, một tỉnh ven biển thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, Trà My sớm quen với tự lập khi cô phải chuyển vào trung tâm thành phố Tuy Hoà sống một mình để có môi trường học tập tốt hơn vào năm lớp 6. Tới thời điểm thi Đại học, không theo ngành dược hoặc kinh tế được ba mẹ định hướng, cô bị cuốn hút bởi ngành công nghệ sinh học bởi cô muốn khám phá thế giới vi sinh và tìm hiểu cách thức vi sinh vật gây bệnh cho con người. “Thật nhàm chán nếu cứ đi theo lối mòn. Tôi muốn học những điều mới”, My nhớ lại.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, cô giành được học bổng kép từ trường Đại học Quốc gia Chonnam (CNU) và Quỹ Nghiên cứu Brain Korea 21 (BK21) để theo học chương trình Thạc sĩ và sau đó là Tiến sĩ chuyên ngành Y học Phân tử. Thời điểm đó, “xứ sở kim chi” là quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực y sinh, với những quỹ nghiên cứu khổng lồ được tài trợ bởi các tập đoàn kinh tế lớn.
Trong thời gian học tập tại Hàn Quốc, Trà My đã có cơ hội tìm hiểu về vi khuẩn gây bệnh, được tiếp cận các liệu pháp miễn dịch trong phòng và điều trị ung thư. Khi trở về Việt Nam, cô bắt đầu chuyển hướng nghiên cứu sang vi nấm – một khái niệm khá lạ lẫm trong nhận thức người dân.
“Vi nấm không phải là lĩnh vực hoàn toàn mới. Tuy nhiên, nghiên cứu về vi nấm gây bệnh cho con người vẫn còn nhiều ‘khoảng trống’ cũng như thách thức”, cô nói và đề cập về tình trạng kháng thuốc, khi mọi người thường chỉ nghĩ đến vi khuẩn mà quên rằng vi nấm cũng là mầm bệnh nguy hiểm, chịu áp lực chọn lọc tương tự như vi khuẩn.
Nấm được phân lập tại phòng thí nghiệm hợp tác HMU-USYD
Bởi, theo thống kê từ các nghiên cứu khoa học đã được công bố, mỗi năm trên toàn cầu có hơn 300 triệu người ở mọi lứa tuổi phải đối mặt với các bệnh mà vi nấm gây ra. Trong số này, ước tính có 6,5 triệu trường hợp nhiễm nấm xâm lấn dẫn đến khoảng 3,8 triệu ca tử vong cùng kỳ. Vượt qua cả bệnh lao và sốt rét, số người tử vong do bệnh nấm đang đứng thứ 5 toàn thế giới.
Ít nhất 2,5% người Việt có nguy cơ mắc bệnh do vi nấm
Trong một công bố khoa học năm 2020 về gánh nặng bệnh tật do vi nấm gây ra, cô cùng cộng sự đã chỉ ra Aspergillus là tác nhân vi nấm gây bệnh hàng đầu tại Việt Nam, với hơn 115.000 ca nhiễm nấm Aspergillus phổi mạn tính và 23.000 ca nấm phổi xâm lấn mỗi năm. Nếu không điều trị, nấm phổi mạn tính có tỷ lệ tử vong sau 5 năm là xấp xỉ 50%. Trong khi đó, tỷ lệ tử vong của bệnh nấm phổi xâm lấn chiếm từ 30-80% số người mắc bệnh. Đáng chú ý, nếu nấm phổi xâm lấn không được điều trị, 100% bệnh nhân sẽ tử vong trong thời gian ngắn, có thể chỉ từ 30-90 ngày. Dẫu vậy, số người được chẩn đoán ra bệnh lại vô cùng ít ỏi, chỉ khoảng 1/1.000 ca mắc, điều này cho thấy lượng bệnh nhân không được chẩn đoán và tiếp cận điều trị rất lớn. Nấm phổi đang là "khoảng trống" khi nhiều bệnh viện, cơ sở y tế trong nước chưa đủ điều kiện chẩn đoán bệnh.
Hiểm hoạ từ chính con người
Dưới áp lực chọn lọc tự nhiên, vi nấm đang tiến hóa để thích nghi tốt hơn với môi trường. Việc lạm dụng thuốc chống nấm trong nông nghiệp đã thúc đẩy sự xuất hiện các chủng nấm có khả năng kháng thuốc. Theo chia sẻ của một số nông hộ tại Cà Mau (Việt Nam), họ thừa nhận đã sử dụng thuốc chống nấm nhằm kỳ vọng tăng năng suất cây trồng và vật nuôi lên đến 30%.
Chính cuộc chạy đua theo năng suất khiến nông dân dùng thuốc kháng nấm tràn lan, không theo quy chuẩn. Điều này vô tình dẫn đến việc vi nấm bắt đầu thích nghi và kháng thuốc. Thời gian đầu, vi nấm chỉ có cơ chế kháng với thuốc cho động vật, tuy nhiên, cơ chế kháng chéo xảy ra sau đó rất đáng lo ngại. Cơ chế kháng chéo là khi thuốc kháng nấm sử dụng cho vật nuôi, cây trồng có gốc hay cấu trúc phân tử giống với thuốc điều trị cho người. Lúc này, vi nấm học cách thích nghi dần qua chọn lọc tự nhiên và phát triển lên bậc cao hơn, tiến tới kháng luôn thuốc của người.
TS. Trà My cùng các cộng sự trong nghiên cứu về nấm Aspergillus tại khu vực ĐBSCL
Năm 2018, nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ My thực hiện một dự án đánh giá tình trạng kháng thuốc azole ở nấm Aspergillus. Nhóm đã thu thập mẫu đất, nước và không khí từ 150 địa điểm thuộc 5 vùng sản xuất nông nghiệp khác nhau tại Cà Mau. Kết quả cho thấy tỷ lệ kháng azole thấp nhất đã lên tới 50% - một con số đáng báo động khi so với ngưỡng 10% vốn đã được xem là rất cao ở nhiều quốc gia khác.
Tại Việt Nam, với tỷ lệ hút thuốc lá cao, ô nhiễm môi trường và gánh nặng bệnh lao, vị Tiến sĩ và cộng sự nhận định các bệnh nhân có tiền sử lao phổi hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đang đối mặt với nguy cơ mắc nấm phổi do Aspergillus. Sự hạn chế về năng lực chẩn đoán vi nấm khiến nhiều trường hợp bị chẩn đoán nhầm với lao tái phát, dẫn đến điều trị sai và kéo dài, gây tốn kém cũng như làm tăng nguy cơ kháng thuốc ở bệnh nhân.
Sự xuất hiện các chủng nấm kháng thuốc đặc biệt nguy hiểm đối với những người có hệ miễn dịch suy giảm như bệnh nhân HIV/AIDS, tiểu đường, ung thư, người sử dụng corticosteroid lâu ngày, người sử dụng thuốc ức chế miễn dịch.
Trong khi đó, chi phí điều trị một số loại vi nấm là gánh nặng lớn. Trung bình một ca nhiễm nấm Candida xâm lấn tiêu tốn khoảng 65.000 USD (gần 1,7 tỷ đồng), trong khi điều trị nấm mucormycosis có thể lên tới 110.000 USD (2,9 tỷ đồng).
Điều đáng lo ngại là hiện nay chỉ có ba nhóm thuốc được phép lưu hành để điều trị các bệnh do vi nấm gây ra, trong đó một số loại rất khan hiếm tại Việt Nam. Như vậy, người bệnh dù có điều kiện tài chính, vẫn có thể không tiếp cận được thuốc điều trị kịp thời.
Ước vọng của nhà khoa học
Thiếu hụt dữ liệu về tình trạng nhiễm nấm trong cộng đồng, những bất cập trong chẩn đoán và điều trị, cùng gánh nặng chi phí mà người bệnh phải gánh chịu là những lý do thôi thúc nữ Tiến sĩ theo đuổi lĩnh vực vi nấm suốt 7 năm qua. Cô từng công tác tại Viện Nghiên cứu Y khoa Woolcock, trước khi đảm nhiệm vai trò Trưởng phòng Thí nghiệm Vi sinh thuộc Viện Đại học Sydney Việt Nam.
Sau thời gian tu nghiệp ở các quốc gia phát triển, “Ra đi hay trở về?” luôn là câu hỏi đầy trăn trở của nhiều nhà khoa học trẻ khi đứng trước ngưỡng cửa sự nghiệp. Với Trà My, hành trình trở về Việt Nam không chỉ là lựa chọn, mà là một lời cam kết. Cam kết được cống hiến cho quê hương, nơi cô tin rằng khoa học có thể tạo ra những thay đổi tích cực.
Được tiếp tục nuôi dưỡng đam mê nghiên cứu trên chính mảnh đất nơi mình sinh ra và được chứng kiến sự chuyển mình của khoa học công nghệ tại Việt Nam. Điều này khiến tôi hạnh phúc.
Năm 2021, Tiến sĩ My tham gia vào dự án toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhằm xây dựng “Danh sách các tác nhân gây bệnh nấm ưu tiên”. Suốt một năm, cô cùng đội ngũ chuyên gia quốc tế đã miệt mài sàng lọc hàng chục nghìn tài liệu khoa học để xác định được 19 loại nấm gây bệnh quan trọng. Đây là tài liệu nền tảng mang giá trị định hướng cho các nghiên cứu tương lai cũng như các chiến lược hành động trong y tế công cộng toàn cầu.
TS. Trà My hướng dẫn một buổi đào tạo thực hành trong phòng thí nghiệm về chẩn đoán Aspergillus tại Bệnh viện Phổi TW.
Trong các năm 2019 và 2022, cô cùng cộng sự tổ chức nhiều hoạt động tập huấn nhằm nâng cao năng lực chẩn đoán vi nấm cho đội ngũ cán bộ y tế tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Không dừng ở đào tạo, Trà My còn đóng vai trò cầu nối, liên kết các chuyên gia trong và ngoài nước để triển khai nhiều dự án nghiên cứu chuyên sâu về nấm gây bệnh cho người tại Việt Nam. Những nỗ lực này đang góp phần xây dựng nền tảng khoa học vững chắc, hướng tới cải thiện chất lượng chẩn đoán và điều trị bệnh do vi nấm gây ra trong nước, giúp giảm chi phí, nâng cao hiệu quả điều trị và cơ hội sống cho người bệnh.
Những năm qua, tại Viện Đại học Sydney Việt Nam, nữ Tiến sĩ không ngừng mở rộng phạm vi nghiên cứu sang nhiều chủng nấm gây bệnh khác nhau, với mong muốn hiểu rõ hơn về “sát thủ” âm thầm nhưng ngày càng hiện hữu này. Trong đó, Chiến lược “Một sức khỏe” (One Health) là cách tiếp cận liên ngành được cô và cộng sự mạnh mẽ áp dụng, triển khai nhằm đánh giá toàn diện nguy cơ lây truyền bệnh qua chuỗi cung ứng thực phẩm, từ nông trại đến bàn ăn.
“Liệu tác nhân gây bệnh tồn tại ở nông trại có thể đi theo chuỗi cung ứng thực phẩm và ảnh hưởng đến sức khỏe con người?” là câu hỏi mà nhóm nghiên cứu đang nỗ lực giải đáp. Đặc biệt, họ tập trung vào nguy cơ đến từ các chủng nấm kháng thuốc – mối đe dọa đang gia tăng trong bối cảnh nhiều bệnh nền trở nên phổ biến hơn.
TS. Trà My cùng các cộng sự trong nghiên cứu về nấm gây bệnh tại khu vực phía Bắc
Hiện, Chiến lược “Một sức khoẻ” nhận được sự đồng hành từ các cơ quan chủ chốt như Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường với nỗ lực chung nhằm kiểm soát tình trạng lạm dụng thuốc trong nông nghiệp - một nguyên nhân tiềm ẩn làm gia tăng kháng thuốc. Theo Trà My, đi xuyên suốt chuỗi cung ứng giúp nhóm nghiên cứu làm rõ nhiều vấn đề, đưa ra những cảnh báo kịp thời và mạnh mẽ tới các cơ quan chức năng. “Tăng năng suất là cần thiết nhưng phải bền vững,” cô nhấn mạnh.
Đề cập về kế hoạch tương lai, nhà khoa học nữ cho biết, cô đang nâng cao năng lực của nhân viên phòng thí nghiệm thông qua các hoạt động đào tạo được thực hiện liên tục, giúp đội ngũ nhân sự sẵn sàng tiếp nhận nhiều nghiên cứu mới, có độ phức tạp cao trong thời gian tới. Ngoài ra, thông qua phòng thí nghiệm hiện đại tại Viện Đại học Sydney Việt Nam, cô cùng cộng sự mong muốn hỗ trợ các nghiên cứu viên trong và ngoài nước, đồng thời tăng cường hỗ trợ chuyên môn cho y tế tuyến cơ sở – nơi đang rất cần sự tiếp sức từ khoa học.
“Mỗi một nghiên cứu đã và đang trả lời được các câu hỏi còn bỏ ngỏ cho cộng đồng. Việc tìm ra câu trả lời như vậy khiến những người làm khoa học như tôi cảm thấy công việc của mình có ý nghĩa”, Tiến sĩ Dương Nữ Trà My nói./